Lịch sử Mitanni

Thời kỳ khai quốc

Người Hurria đã sống ở phía đông sông Tigris, phía bắc Lưỡng Hà và thung lũng Khabur. Một bộ phận đã di cư xuống phía nam vào trước thế kỷ 17. Eusebius, viết vào thế kỷ 4, trích dẫn từ Eupolemus-sử gia người Do Thái thế kỷ 2 TCN, rằng “vào thời Abraham, người Armenia xâm lược Syria”. Điều này gần khớp với sự xuất hiện của người Mitanni, vì Abraham được cho là sống vào khoảng thế kỷ 17 TCN. Người Mitanni được nhắc tới trong các văn bản Nuzi, Ugarit và được người Hittite cất trữ ở Hattushsha. Các văn bản Cuneiform từ Mari nói đến những người thống trị các thành bang ở bắc Lưỡng Hà với các tên Amorite và Hurria. Các kẻ thống trị ở Urshum và Hashshum cũng có tên Hurria. Không có các bằng chứng rõ rệt về một cuộc xâm lấn từ hướng đông bắc. Các bằng chứng chỉ ra rằng người Hurria đến từ phía nam và tây.

Theo truyền thuyết thì vị vua đầu tiên sáng lập Mitanni là Kirta. Tuy nhiên không ai biết gì về các vị vua đầu tiên của Mitanni.

Các vị vua

Barattarna/Parsha(ta)tar

Vua Barattarna được nhắc đến trong các bản khắc ở Nuzi, nhưng các tài liệu Ai Cập không thấy đề cập đến. Có giả thiết rằng Barattarna là vị vua đã chiến đấu chống lại Pharaoh Thutmose III ở thế kỷ 15 TCN. Người ta vẫn đang tranh luận xem Barattarna và Parsha(ta)tar có phải là cùng một người không ?

Dưới triều vua Thutmose III, quân Ai Cập vượt qua sông Euphrate và tiến vào trung tâm lãnh thổ Mitanni. Tại Megiddo, quân Ai Cập giao tranh với liên quân Syria, các lãnh chúa Kadesh và quân Mitanni. Sau trận Megiddo, không rõ có tồn tại một hiệp ước nào không, nhưng Ai Cập đã thắng lợi trong việc mở đường tiến lên phương bắc.

Thutmose III lột lần nữa phát động chiến tranh vào năm thứ 33 trong triều đại của mình. Quân AI Cập vượt qua Carchemish tới một thị trấn tên là Iryn (có thể là Erin ngày nay, cách Aleppo 20 km về hướng tây bắc). Quân Ai Cập vượt sông Euphrate đến Emar (Meskene) rồi trở lại Syria. Các vùng đất miền trung Orontes và Phoenicia trở thành lãnh thổ của Ai Cập.

Barattarna và con trai Shaushtatar kiểm soát miền bắc Syria và vùng duyên hải kéo dài từ Kizzuwatna tới Alalakh.

Shaushtatar

Shaushtatar đã cướp phá Assur vài lần trong thế kỷ 15 TCN. Ông đã lấy các cánh cửa bằng vàng bạc mang về Washukanni[1]. Điều này được nhắc đến trong hiệp ước giữa Suppililiuma và Shattiwaza sau này.

Sau khi Assur bị cướp phá, Assyria có thể phải cống nạp cho Mitanni. Trong thời gian là chư hầu của Mitanni, các đền thờ Sin và Shamash đã được xây dựng ở Assur.

Aleppo, Nuzi, và Arrapha được sáp nhập vào Mitanni dưới triều vua Shaushtatar. Quân đội Mitanni nổi tiếng với tài điều khiển chiến xa. Các văn bản nói về việc huấn luyện ngựa chiến được viết bởi Kikkuli đã được tìm thấy ở Hattusa. Vào thời của Pharaoh Amenhotep II, Mitanni đã giành lại được ảnh hưởng ở miền trung Orontes.

Artatama I và Shuttarna II

Về sau Ai Cập và Mitanni trở thành đồng minh. Bản thân vua Shuttarna II được tiếp đón tại Ai Cập. Giữa hai bên có những trao đổi thư từ và những món quà xa xỉ. Mitanni đặc biệt có hứng thú với vàng của Ai Cập. Điều này dẫn tới các đám cưới giữa hoàng tộc hai bên: con gái của Artatama I và Thutmose IV. Kilu-Hepa hay Gilukhipa, con gái Shuttarna II lấy Amenhotep III. Sau này Tadu-Hepa hay Tadukhipa, con gái Tushratta cũng được gả sang Ai Cập.

Khi Amenhotep III bị ốm, vua Mitanni đã gửi bức tượng thần Shaushka (Ishtar) của Niniveh sang để cầu phúc. Đường biên giới giữa Ai Cập và Mitanni là ở gần Qatna. Ugarit thuộc về Ai Cập.

Artashumara và Tushratta

Artashumara kế vị ngai vàng của Shuttarna II nhưng lại bị ám sát bởi UD-hi hay Uthi. Sau đó Uthi thay thế Tushratta, một người con khác của Shuttarna II. Có giả thiết rằng Uthi có được sự ủng hộ của Ai Cập trong việc này.

Lợi dụng tình trạng bất ổn tại các chư hầu của Mitanni, Aziru của Amurru đã bí mật hợp tác với Hittite. Vua Suppiluliuma của Hittite đã chiếm lại Kizzuwatna. Suppiluliuma cũng cướp vùng đất phía tây của thung lũng Euphrate và Amurru, Nuhashshe từ Mitanni.

Suppiluliuma đã kí hiệp ước với Artatama II, đối thủ của Tushratta. Suppiluliuma tiến hành thôn tính các vùng đất ở phía tây sông Euphrate. Tushratta đe doạ sẽ làm cỏ Euphrate.

Suppiluliuma muốn giành lại Ishuwa, vùng đất mà người Hittite đã để mất vào tay Mitanni ngày trước. Quân Hittite vượt qua biên giới và chiếm lại được Ishuwa. Hittite còn nhiều lần tấn công Washukanni. Suppiluliuma yêu sách về nhiều thứ.

Trong chiến dịch lần thứ hai, quân Hittite chiếm được Halab, Mukish, Niya, Arahati, Apina, and Qatna cũng như một vài thành phố khác chưa rõ tên. Hittite thu nhiều chiến lợi phẩm và chiến xa đưa về Hatti. Để đối phó với lực lượng chiến xa hùng mạnh của Mitanni, Hittite cũng đã nâng cấp chiến xa của mình.

Shattiwaza

Một người con của Tushratta làm phản, giết chết ông ta rồi kên ngôi. Một người con khác là Shattiwaza buộc phải bỏ trốn. Nhân đó, người Assyria giành lại độc lập, Mitanni đã phải trao lại những cánh cửa mà họ cướp được ở Assur trước đây.

Shattiwaza đầu tiên chạy sang Babylon, sau đó sang Hittite. Vua Hittite đã gả con gái cho Shattiwaza. Suppiluliuma đã ký hiệp ước với Shattiwaza. Sau đó Piyashshili, con trai của Suppiluliuma đã đem quân giúp Shattiwaza quay về Mitanni. Quân Hittite vượt qua Euphrate, giao chiến với người Irrdu ở Hurrite. Quân Hittite đã thắng.

Trong khi đó quân Assyria tiến đến Washukanni. Có vẻ như Mitanni đã cầu viện Assyria để chống lại Hittite, nhưng Assyria lại từ chối. Shuttarna đành đầu hàng Hittite. Quân Assyria rút lui để tránh đối mặt với quân lực hùng hậu của Hittite.

Shattiwaza trở thành vua của Mitanni. Tuy nhiên chính quyền bị khống chế bởi Hittite và lãnh thổ bị thu hẹp. Hittite lợi dụng Mitanni để chống lại Assyria.

Shattuara I

Các tài liệu của Adad-ninari I (1307-1275 TCN) mô tả quan hệ giữa Shattuara I và Assyria. Adad-ninari I đã bắt Shattuara về Assur và sau này mới thả về Mitanni. Shattuara đã phải chịu những khoản cống nạp nặng nề cho Assyria. Lúc này ở Hittite đang là triều vua Mursili II.

Wasashatta

Ghen ghét trước sự hùng mạnh của Assyria, con trai của Shattuara là Wasashatta đã chống đối. Ông đã cầu viện Hittite nhưng bản thân Hittite lúc này đang vướng phải nội chiến do việc Hattusili III cướp ngôi cháu mình là Urhi-Teshup. Hittite có viện trợ tiền cho Mitanni nhưng không giúp đỡ về quận sự.

Assyria tấn công Taidu, chiếm Washshukannu, Amasakku, Kahat, Shuru, Nabula, Hurra và Shuduhu. Assyria còn tấn công Irridu, phá huỷ nó hoàn toàn và rắc muối lên trên đó. Vợ và con cái của Wasashatta bị bắt về Asshur còn bản thân ông thì chạy thoát. Một vài học giả nghĩ rằng ông ta đã chạy đến Shuriba (một thành bang của Mitanni) và trở thành người cai trị ở đó.

Trong cuộc chinh phạt Mitanni, Adad-ninari I không vượt qua Euphrate và Carchemish vẫn thuộc về Hittite. Adad-ninải đã gửi thư yêu cầu vua Hittite công nhận mình ngang hàng.

Shattuara II

Shattuara II, con trai hoặc cháu trai của Wasashatta đã nổi dậy chống lại vua Shalmaneser I (1270-1240 TCN) của Assyria. Ông được sự giúp đỡ của Hittite và bộ lạc Ahlamu. Thế nhưng Shalmaneser I đã giành chiến thắng vang dội. Quân Assyria đã tàn sát 14400 người. Theo các tài liệu ca ngợi chiến công của Shalmaneser I thì 180 thành phố của người Hurria bị tàn phá, quân Hittite và Ahlamu bị giết như những con cừu, các thành phố từ Taidu cho đến Irridu bị thất thủ.

Hanilgalbat

Một bộ phận dân chúng bị lưu đày và lao dịch. Nhà cầm quyền phải phân phát lúa mạch cho dân chúng. Assyria đã xây dựng một hệ thống thành lũy kiên cố để chống lại Hittite.

Ili-ippada, một thành viên trong hoàng tộc Assyria đã trở thành vua của Mitanni (lúc này có tên gọi là Hanilgalbat như là một tỉnh của Assyria). Assyria kiểm soát về quân đội và chính trị nhưng không kiểm soát giao thương.

Dưới thời vua Tukulti-Ninurta I (1243-1207 TCN) lại có một lượng lớn người tị nạn chạy từ Mitanni đến Asshur, tham gia vào việc xây dựng các cung điện. Vua Hittite đã tiến hành một cuộc xâm lược Hanilgalbat, kích động bạo loạn. Các thành phố của Assyria bị cướp phá.

Dưới thời Assur-nirari III, người Mushku và các bộ lạc khác xâm lược Hanilgalbat. Người Hurria vẫn nắm giữ Katmuhu và Paphu.

Thời kỳ đế quốc Assyria mới

Trong vài thế kỷ, Washukanni bị Assyria đô hộ. Người Mitanni dường như đã xây dựng lại một thành bang mới là Urartu ở phía bắc. Vào thời của Adad-nirari II, Assurbanipal II và Shalmaneser III cái tên Hanilgalbat vẫn được sử dụng.